top of page

Hai Phạm Trù và 3 Xu Hướng trong sự tu trì (phần 1)


ree

Bài này được trích ra và viết lại từ loạt bài giảng trực tuyến của Thầy Hằng Trường về 7 chiều sâu thiền định vào tháng 9 năm 2025. Triết lý nền tảng dựa trên triết lý Kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng Nghiêm và pháp tu Hoa Nghiêm Thủ Nhãn.

 

Khi chúng ta muốn tu tập thì thường tìm một pháp để tu, nhưng chúng ta nên có kiến thức tổng quát về sự tu trì của mình để dễ dàng tiến bước. Loạt bài giảng này đưa ra những kiến thức căn bản cần thiết trên con đường tu tập.


ree

Có hai phạm trù trong sự tu trì:

 

1.    Phạm trù Xuất Tục là khi tu luyện như lúc ngồi thiền, tập yoga hay tập Tai Chi một mình. Đó là lúc hướng nội và hướng thượng, hướng vào trong tâm linh. Có những lúc chúng ta hướng nội, nghĩ ngợi nhiều nhưng không phải là xuất tục vì không hướng thượng, không ra khỏi trần tục/thế tục.

 

Xin lưu ý là trong dòng phái Hoa Nghiêm Thủ Nhãn, khi thiền thì nhắm mắt hoàn toàn.

 

2.    Phạm trù Nhập Thế là khi mở mắt, hướng ngoại, sinh hoạt với người khác.

 

Chuyện tu hành rất thú vị bởi vì tu là một chuyện, nhưng khi sống là một chuyện khác. Phải làm sao cho hai phạm trù từ từ gắn liền với nhau, nếu không thì nghiệp có thể sẽ tới đòi và phá rối, nhất là nếu không đủ phước đức thì nghiệp sẽ bắt đầu hoành hành. Vì vậy, một mặt phải tu để phát triển tự tánh quang minh trong phạm trù Xuất Tục, mặt kia (phạm trù Nhập Thế) thì phải tu phước đức.

 

Phước là gì? Phước có được khi mình làm lợi cho người khác ví dụ như cho ra, bố thí, hoặc làm những điều gì để cuộc sống của người khác được hạnh phúc hơn.

 

Đức là gì? Đức là sự hóa giải những tật xấu của mình. Nếu tham sân si của mình quá nặng, hay mình dữ dằn quá làm tổn hại người thì không có đức.


Phải tu phước và tu đức để hỗ trợ cho chuyện ngồi thiền. Hai điều đó gắn liền với nhau và hỗ trợ lẫn nhau.

Phân biệt được hai phạm trù rồi thì phương hướng tu trong mỗi phạm trù là gì?

 

Dưới đây liệt kê và giải thích 3 xu hướng cho phạm trù Xuất Tục, bài kế chúng ta sẽ nói đến phạm trù Nhập Thế. Những phương hướng tu này của dòng phái Hoa Nghiêm Thủ Nhãn và đó là những việc mà người tu trì cần nên làm và tâm nên luôn hướng đến để khỏi bị lầm đường.


Ba Xu Hướng trong phạm trù Xuất Tục


ree

  1. Khai mở tự tánh sáng suốt

    Càng tu thì chúng ta càng khởi động và mở ra Chân Tâm. Cách tu của dòng phái Hoa Nghiêm Thủ Nhãn là nuôi dưỡng các hạt giống quang minh. Để khai mở tự tánh sáng suốt thì khi tu phải chuyên tâm quán hạt giống quang minh.

     

    Nhân nào thì quả đó, ‘nhân’ là quang minh thì ‘quả’ là quang minh. Khi trồng hạt nhân nhỏ xíu của ánh sáng tự tánh sáng suốt, lúc hạt trở thành mầm, trở thành một cây nhỏ, rồi thành cây lớn, có lá, có cành, có nhánh thì quả là vô lượng quang minh.

     

    Quang minh là chữ dùng để nói tới sự sáng suốt nội tại. Quang là ánh sáng ra ngoài. Minh là sáng suốt nội tại.


    Chân Tâm có sự sáng suốt và Chân Tâm có khả năng tự biết chính nó. Chúng ta chỉ nhìn thấy đối tượng, không nhìn được chính mình, không biết được mặt của mình (nếu không có gương soi), không thấy được cái ngã. Mình không thấy được Chân Tâm dù Chân Tâm lúc nào cũng hiển hiện cả. Mắt của chúng ta chỉ nhìn bên ngoài thôi và không thể thấy được những gì vô hình vô tướng. Khi tu quang minh chính là tu sự sáng suốt của Chân Tâm.


    Chủng tử tự (hạt giống quang minh) từ đâu ra?

    Chư Phật, những vị hoàn toàn giác ngộ trong thời quá khứ, nghĩ rằng khi phàm phu chúng ta ngồi nhắm mắt thế nào cũng dính vào trong hữu lậu, tức là vũ trụ mình đã thấy rồi. Chúng ta không thể nào nhìn được cái gì chưa thấy, chưa biết, chưa chứng nghiệm, chưa cảm nghiệm được. Chư Phật ở trong cảnh giới giải thoát, nơi vô lượng vô biên quang minh, hoàn toàn ra ngoài vũ trụ trần tục của mình. Đức Phật có một đặc tánh rất quan trọng là Ngài có thể đem cả vũ trụ Pháp Giới thu nhỏ thành một hạt đậu. Chúng ta nghe trong kinh nói là Ngài đem cả vũ trụ nhét vào trong một hạt cải, hạt đậu. Nghe có vẻ rất huyền bí nhưng thật ra cây táo to lớn nhưng hạt táo nhỏ xíu có tiềm năng trở thành cây táo to lớn. Tuy phàm phu chúng ta không có khả năng thu nhỏ như Chư Phật nhưng hiểu được tiềm năng của hạt táo, rằng ‘trong nhân có quả’.

     

    ree

    Chư Phật có khả năng thu nhỏ (zip) một vũ trụ gọi là Pháp Giới thành một chủng tử tự, một hạt giống quang minh, một hình ảnh mà chúng ta không thấy thường xuyên, cũng không dính dáng đến cuộc sống hiện tại. Ngài nói, các con hãy dùng hình ảnh này làm đối tượng tu tập. Đó là những hình ảnh mình viết ra, tạo ra, tuy không có thật nhưng chúng là một phương tiện giúp chúng ta tu tập. Đức Phật gọi những hình ảnh đó (chủng tử tự hay hạt giống quang minh) là sự khởi đầu của vô lượng quang minh. Chúng là những hạt giống và là hạt giống vô lậu bởi vì chúng không do con người hay vũ trụ này sáng tạo ra mà phát xuất từ bản chất của Chân Tâm, bản chất vô lượng quang minh. Đức Phật gọi đó là hạt giống vô lậu, bất sinh.

     

    ree

    Nhiệm vụ của chúng ta là tu để khai mở sức sống của các chủng tử tự đó, làm nó hiển hiện. Khi ngồi thiền trong phương thức của Hoa Nghiêm, đối tượng của mình là hình ảnh của hạt giống vô lậu, chứ không phải là hạt giống vô lậu. Chúng ta phải chuyên tâm quán hình ảnh hạt giống vô lậu. Chúng ta nhớ hình vẽ chủng tử ra sao rồi, hãy vẽ trong đầu của mình, rồi cứ nghĩ trong đầu chủng tử tự và đọc câu chú. Tai nghe âm thanh của câu chú, mắt không nhìn ra ngoài mà nhìn vào trong để nhìn hình ảnh chủng tử tự.

     

    Muốn làm cho hình ảnh đó bừng lên sức sống vô lượng quang minh thì mình phải làm 4 điều:

    a.     Ngồi yên thư giãn, bất động,

    b.    Hơi thở phải rất vi tế, nhẹ nhàng vô cùng,

    c.     Phải trì câu chú cho miên mật (miên có nghĩa là không gián đoạn, mật nghĩa là thâm sâu). Trì thâm sâu không phải là niệm ngoài miệng, mà là niệm trong tâm và niệm đến chỗ không gián đoạn và không quá nặng nề,

    d.    Quán tưởng rõ ràng hình ảnh của hạt giống quang minh. Vì sao vậy? Muốn chuyên chú vào trì chú và quán tưởng thì thân thể phải bất động, hơi thở phải vi tế. Thân xác có sức mạnh vô cùng. Khi thân thể động đậy thì lập tức tâm chú ý đến thân xác. Hơi thở cũng vậy, khi thở mạnh thì bị phân tâm.

     

    Khi quán hình ảnh hạt giống, chúng ta trì chú, thân phải bất động và hơi thở sâu nhẹ để từ từ không còn kẹt trong sắc ấm, không còn bị cảm xúc cảm tình chi phối thì sức sống của hạt giống mới phát khởi. Khi thiền phải buông bỏ cuộc sống trần tục, hữu lậu thì mới mở được cuộc sống thánh thiện, vô lậu. Nếu không thì mình sẽ kẹt trong cuộc sống hữu lậu.

    ree


  2. Không ngừng vượt thoát nhị nguyên.

    Nhị nguyên là lúc nào cũng có chủ thể và đối tượng.

    Chủ thể là cái tôi, cái ‘mình’.

    Đối tượng là cái ‘mình’ thấy, ‘mình’ có, hay ‘mình’ cảm nhận / nhận biết.

    Cái thấy được là đối tượng và người thấy là chủ thể.

     

    Đối tượng là hình ảnh chủng tử tự thì lúc đầu chủ thể là cái ngã nhìn đối tượng, nhưng từ từ hạt giống sẽ phát triển, có sự sống và chủ thể ‘ta’ sẽ bị thay đổi.

    Dòng phái Hoa Nghiêm Thủ Nhãn thì không ngừng vượt thoát nhị nguyên, và những cảnh giới trong thiền thì nên thấy là bình thường. Chúng ta thấy nó để mà vượt thoát chứ không phải thấy nó để bị kẹt, không thể giải thoát!

     

    Khi ngồi tu thì xu hướng của chúng ta là nhất tâm chuyên chú quán hạt giống quang minh, đừng hướng tới hay nghĩ ngợi những chuyện khác, hoặc nghĩ tới những cảnh giới trong thiền. Thí dụ ngồi thiền mà mong muốn thấy được hoa sen hoặc mong thấy được ánh sáng hiện ra thì đó là những sự phân tâm, nói khác là không nhất tâm.

     

    Có khi chúng ta nghe kể: “chị biết không, tôi ngồi thiền thấy cảnh giới này hay lắm. Tôi thấy điện trong người chạy bên này, có lúc chạy bên kia. Tôi thấy hoa sen hiện ra, ông Phật hiện xuống, rưới nước Cam Lồ. Tôi thấy tôi vào trong tầng trời của vị thánh nhân …”

     

    Khi mình không vượt thoát được nhị nguyên (chủ thể và đối tượng) thì sẽ kẹt trong đó hoài. Hễ thấy cảnh giới là tự cột mình vào cảnh giới đó và khi ra khỏi thiền thì lúc nào cũng kể: ‘tôi tu như thế này, hay ho như thế kia’... Như thế là bị kẹt. Đối tượng khi đó là cảnh giới, không còn là hình ảnh chủng tử nữa.

    Như thế, Nhất tâm là gì? Là chỉ chuyên chú vào một chuyện thôi.

    Chuyên chú một chuyện đó là gì? Là chủng tử tự.

  3. Không ngừng là bất nhị.

    Thay vì ‘không ngừng là Chân Tâm’ thì hãy ‘không ngừng là Bất Nhị, là bản tánh của mình’, là sự sáng suốt chiếu soi.

     

    Làm thế nào được như vậy?

    Cứ tiếp tục tu, tu hoài, tiếp tục tiến tới. Để chi vậy? Vì hạt giống trở thành cây vô lượng quang minh cần thời gian dài lắm, không phải chỉ hai ba ngày, hai ba đêm. Nếu tu một hồi rồi chán, không thấy kết quả gì cả, đó gọi là mong cầu. Vì có mong cầu nên mới bị kẹt.

     

    Tại sao câu ‘cứ tiếp tục tu’ quan trọng?

    Câu ‘tiếp tục tu’ nghĩa là gì? Nghĩa là đừng mong cầu gì cả, ví như lái xe, cứ tiếp tục lái tới (keep driving). Thí dụ như lái xe từ Virginia lên Montreal, khi đã biết con đường đi rồi thì cứ lái, chớ nên một chặp lại hỏi sắp tới Montreal chưa? Ồ, còn xa lắm, xa lắm! Càng hỏi thì tự nhiên càng thấy đường xa, rồi thấy mệt mỏi.

     

    Cho nên, hãy tiếp tục lái cho tới nơi. Đó là tinh thần rất là quan trọng của chuyện tu hành. Khi mình không có ý nghĩ là phải tới ngay thì tự nhiên sẽ thấy chuyện tu nhẹ nhàng vô cùng. Như khi thấy đứa con thi rớt thì mình tu để cho nó thi đậu, hay là khi chưa có cháu thì tu làm sao cho con sinh được cháu. Khi có cháu cho mình giữ rồi thì bận rộn, thôi, không tu tiếp nữa. Đó không phải là keep driving mà là lái xe đi một hồi rồi thôi, và ngừng lại.

     

    Thế nào là tiếp tục tu? Chẳng hạn hôm nay có chuyện buồn quá, thôi nghỉ một ngày. Không! Không nên! Ngày nào cũng tu, ngày nào cũng ráng tu.

     

    Hoặc là có chuyện vui, thôi thì nghỉ hai ba bữa hoặc một tuần, hay là đi chơi rồi nghỉ hai ba tuần. Không phải như vậy! Tu là ngày nào cũng tu, không thay đổi chương trình. Thầy có bà đệ tử bên Đài Loan, có người báo tin cho Thầy biết rằng mỗi khi bà đi chơi xa luôn đem theo pháp bảo. Ngày nào cứ mỗi sáng đúng 6:00, bà lấy pháp bảo ra tu. Mặc ai làm gì thì làm, bà tu buổi sáng và buổi tối cũng tu.

     

    ‘Tiếp tục tu’ cho dù bất kỳ hoàn cảnh hay tâm trạng của mình như thế nào vẫn không ngừng nghỉ. Có khi bác giận người này hay người kia quá, rồi không chịu tu. Giận không ăn, giận không chơi với người ta nhưng ngày nào cũng nên tu, không thay đổi chương trình tu hành của mình. Đó là điều quan trọng nhất. Nếu tu một ngày hai lần thì đôi khi bớt một lần cũng được, không can gì, nhưng không thể nào không tu. Ngày nào cũng phải tu.

     

    Tiếp tục tiến tới như thế thì gọi sự sáng suốt, là sự chiếu soi. Mình là sự sáng suốt chính lúc tu hành. Lúc không tu thì chưa tới đâu. Bắt đầu vào đạo là như thế. Nghĩa là công khóa hằng ngày không bỏ và không một mong cầu gì cả, cứ việc ngày nào cũng keep driving, ngày nào cũng ngồi thiền, ngày nào cũng tu.

     

    Được như vậy, động cơ là do lòng mình rất mộ đạo, thích tu, hiếu học, và hiếu tu. Mình cảm thấy chuyện tu hành là quan trọng hơn hết. Còn những chuyện như người này thế này, người kia thế kia, công việc này thế nọ, nhóm kia thế này… mình không thấy đó là những chuyện gì quan trọng mà chỉ là chuyện bên lề. Mình chỉ chuyên chú ngày nào cũng tu, tiếng Mỹ gọi là ‘be illumination’ hay là ‘illuminating presence’. Presence là sự hiển hiện. Illuminating là sự sáng soi.

     

    Thay vì gọi là trưởng dưỡng cái tốt thì mình gọi là lúc-nào-cũng-bất-nhị. Bất Nhị là thái độ khi tu mình trưởng dưỡng sự tu hành của mình. Có một ngày bác tu tốt thì OK, ngày khác bác ngồi không được, chân đau cũng không can gì nhưng phải nuôi dưỡng tinh thần Bất Nhị của mình, tức là ngày nào cũng tu, ngày nào cũng ngồi thiền như vậy để trưởng dưỡng và làm cho chuyện tu của mình được đẹp. Tất cả những gì tốt đẹp trong lòng của mình và trong bao nhiêu kiếp, bao nhiêu năm mình tu tập, bây giờ từ từ nó hiện ra và mình nuôi dưỡng nó, nhưng mình không kẹt với tất cả những gì hiện ra trong lúc mình tu hành. Đó gọi là Kim Chỉ Nam cho sự tu hành.

    Bây giờ các bác nghe cho biết vậy thôi, hãy học thuộc lòng các tông chỉ đó đi, sau rồi từ từ mình khai mở. Khi có tông chỉ thì thường thường các bác viết xuống tông chỉ để trước mặt, để khi tu mình biết là tu cái gì, phương hướng là gì? Giống như mình chạy xe, Thầy ở Orange County, miền nam California muốn đi San Francisco thì Thầy biết sẽ đi về hướng Bắc. Khi tu, phải biết hướng của mình đi là hướng nào.

     

    Tóm lại, 3 xu hướng nói trên rất rõ ràng: 

    -      Khai mở tự tánh sáng suốt (chuyên tâm quán hạt giống quang minh),

    -      Không ngừng vượt thoát nhị nguyên (nhất tâm, không mong cầu),

    -      Không ngừng là bất nhị (tiếp tục Là sự sáng suốt, chiếu soi).

    Chúng ta không hướng đến chứng nhất thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, mà càng ngày càng khai mở Chân Tâm.

     

    Xuất Tục thì “y pháp bất y ngã (tôi)” có nghĩa là phải theo pháp chứ đừng theo cái ngã. Ví dụ, có cảnh giới đẹp thì thích quá rồi từ từ quảng cáo chính mình và lúc ngồi thiền thì tìm cảnh giới. Đó là một điều rất là nguy hiểm. Ví dụ, có người nói khi ngủ thì thấy người âm tới nói chuyện, hay thấy bồ tát hiện ra và rồi kể cho người khác nghe. Như vậy gọi là tu cái ngã vì đó không phải là mục đích tu của mình.

    Nếu chúng ta đi ngoài đường và thấy người say rượu, nhìn thì biết, rồi đi tiếp, không cần để ý đến chuyện đó hoặc kể lại cho người khác. Trong đời sống, bác thấy rất nhiều người, ma quỷ đi vớ vẫn nhưng đó là chuyện thường. Bác không nghĩ chuyện đó là chuyện quan trọng.

    Trong Thiền Tông và Hoa Nghiêm Tông có câu rất hay “Kiến quái bất quái, kỳ quái tự tiêu”.

    Kiến quái tức là thấy yêu quái; bất quái là đừng có cảm thấy quái đản. ‘Kiến quái bất quái’ nghĩa là tuy thấy yêu ma quỷ quái nhưng không thấy nó quái đản gì mà chỉ là bình thường thôi.

    ‘Kỳ quái tự tiêu’ là chuyện quái dị, chuyện yêu ma quỷ quái hiện ra tự nó sẽ tiêu tan mất và không cần phải nói nữa.

    Khi các bác thấy thái độ của mình thường kể rằng: ồ, tôi thấy người âm thế này, người âm thế kia, thấy quỷ thấy ma ở trong phòng bên kia kìa, quỷ nó chạy trong phòng bên này. Tôi thấy quỷ nó rõ ràng thế này, thấy ma thế kia...  Cách nói chuyện đó là đang đi vào con đường tà đạo và đang tu cái ngã chứ không phải tu cái pháp.

    Tu pháp thì thấy vô lượng quang minh và trở thành sự sáng suốt, trở thành trí huệ Bát Nhã.

    Dưới đây là tổng kết để cho thấy nhị nguyên là có ngã, có bóng tối. Chúng ta tu là tu Bất Nhị, Vô Ngã, tu sự sáng suốt.


    ree

     

    Thông thường, khi tu hạt giống quang minh như vậy thì hữu hiệu nhất là khi nhập thất hoặc vào một khóa tu 7 ngày, 10 ngày, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng thì sự chuyên tâm mới sâu, nếu không, sẽ có rất nhiều việc phân tâm. Theo kinh nghiệm của Thầy thì tu hàng ngày chỉ là để chuẩn bị thôi, và đến khi nhập thất, tịnh tu thì thật sự mình nỗ lực và mới khơi dậy được sức sống của hạt giống quang minh.

     

    Khi khơi dậy được sức sống của hạt giống quang minh tức là bắt đầu khơi dậy sự sáng suốt của Chân Tâm. Vì thế, nếu gọi ‘ngồi thiền’ trong pháp tu của Hoa Nghiêm Thủ Nhãn không hoàn toàn đúng. Phải nói ‘khởi dậy sự sống bất tận, bất sinh bất diệt của Chân Tâm’ thì đúng hơn. Khi đó, không phải là kiến tánh mà là khởi dậy sự sống của bản tánh Phật. Điều này chỉ trong phạm trù Xuất Tục mà thôi.

     

    Để duy trì ánh sáng đó thì trong phạm trù Nhập Thế, chúng ta phải làm những điều liệt kê trong 3 xu hướng khi Nhập Thế, bởi vì khi mình Nhập Thế, những tánh xấu sẽ hoành hành. Nếu chúng ta không biết tu lòng từ bi hỷ xả, mở tâm lượng rộng rãi và tha thứ, lại không biết gỡ gút thắt thì nghiệp chướng và gút thắt sẽ tới với mình. Những món nợ tiền, nợ tình, nợ máu, nợ nghiện ngập sẽ đến tìm mình và sẽ thắt mình lại.

 
 
 

Bình luận


bottom of page